Thơ Hàn Mặc Tử mang đến sự tươi đẹp, phong khoáng, tràn đầy cảm xúc và đôi khi còn có chút “điên loạn”. Ông sử dụng bút pháp tượng trưng, siêu thực với lối thơ nửa kín nở mở khiến người đọc phải tò mò, thích thú. Hãy cùng The POET magazine điểm qua những tác phẩm hay để đời trong suốt sự nghiệp sáng tác của ông.
Thơ Hàn Mặc Tử mang đến sự tươi đẹp, phong khoáng, tràn đầy cảm xúc và đôi khi còn có chút “điên loạn”. Ông sử dụng bút pháp tượng trưng, siêu thực với lối thơ nửa kín nở mở khiến người đọc phải tò mò, thích thú. Hãy cùng The POET magazine điểm qua những tác phẩm hay để đời trong suốt sự nghiệp sáng tác của ông.
Thơ Hàn Mặc Tử bao gồm 239 bài, chia thành 6 tập thơ gồm:
Những bài thơ của Hàn Mặc Tử trong Lệ Thanh thi tập đều là thơ Đường Luật. Các bài thơ này được ông sáng tác khi còn học tại trường Pellerin, Huế.
Các bài thơ của Hàn Mặc Tử trong tập Gái quê là những tác phẩm duy nhất được xuất bản khi tác giả còn sống. Chúng bao gồm:
Những bài thơ Hàn Mặc Tử hay nhất thuộc tập Thượng Thanh Khí gồm:
Đây thôn Vĩ Dạ - Bài thơ tiêu biểu nhất của Hàn Mặc Tử
Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Hàn Mặc Tử được trích trong tập Thơ điên. Bài thơ đã được đưa vào chương trình giảng dạy môn Ngữ Văn 11, xuất hiện rất nhiều trong bài kiểm tra cuối kỳ và tốt nghiệp THPT.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác trong hoàn cảnh khó khăn nhất của Hàn Mặc Tử, ông đang phải chịu đựng những cơn đau giằng xé của bệnh phong cùi. Thế nhưng, khi đọc bài thơ, người đọc như hòa vào một thế giới khác, nơi ấy không phải là lời kêu than của người đang bệnh nặng mà là tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu thương con người.
Bức tranh phong cảnh Dạ Vĩ bên dòng sông Hương êm đềm được khắc họa trong trí tưởng tượng của người ở nơi xa đang hướng về xứ Huế với bao yêu thương, khát vọng. Bài thơ không chỉ là bức tranh phong cảnh mà cũng chính là tâm cảnh, thể hiện nỗi buồn của nhà thơ trong mối tình xa xăm, vô vọng.
Bút pháp của bài thơ có sự hòa điệu của tả thực, tượng trưng, trữ tình, lãng mạn. Cảnh xứ Huế đậm mét nhưng lại có tầm cao tượng trưng. Sự mơ mộng làm tăng thêm sắc thái biểu cảm và nét chân thực của cảm xúc tăng thêm chất trữ tình.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu tha thiết, man mát, đượm vẻ u buồn được thể hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hòa vào lòng người; giữa cái thực và cái mộng, huyền ảo và cụ thể. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng tác đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung, hồn thơ đượm vẻ đau buồn.
Đọc thơ của Hàn Mặc Tử ta sẽ bắt gặp một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu con người da diết; một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. Hàn Mặc Tử là một người nghệ sĩ đa tài nhưng cuộc đời ngắn ngủi. Dù ra đi ở tuổi đời rất trẻ nhưng sự nghiệp thơ ca của ông rất đồ sộ. Các tác phẩm tiêu biểu đó là:
● Tuyển tập Gái quê (1936) bao gồm: Mơ, Gái quê, Tình quê, Nhớ Nhung, Hái dâu, Âm thầm, Lòng quê, Nắng tươi, Đời phiêu lãng,…
● Tuyển tập Thơ điên (1938) bao gồm: Hương thơm, Mật đắng, Xuân như ý, Máu cuồng và hồn điên,…
● Khác: Biết anh, Em đau, Nhớ mây, Một cõi quên, Hồn lìa khỏi xác, Xuân như ý, Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội,…
Là một trong những nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ mới, thế giới văn chương của Hàn Mặc Tử luôn phong phú, đầy màu sắc, mang đậm phong cách cá nhân. Ông đã đưa vào thơ mới sự sáng tạo, hình ảnh ấn tượng. Thế giới nội tâm đa dạng của Hàn Mặc Tử đã mang đến cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm “để đời”. Bên cạnh sử dụng bút pháp lãng mạn, ông còn sử dụng bút pháp tượng trưng, bút pháp siêu thực.
Từ những ngày đầu chập chững bước vào con đường sáng tác, thơ của Hàn Mặc Tử đã mang màu sắc táo bạo, phá cách, gây được tiếng vang lớn với giới yêu thơ. Lối thơ nửa kín, nửa mở, trần tục đã khiến cho khán giả phải suy ngẫm rất nhiều. Ông dùng con chữ một cách trừu tượng làm nên đòi bẩy để gợi lên những cảm xúc riêng tư của người đọc.
“Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”...
“Trăng nằm sõng soài trên cành liễu
Hoa lá ngây tình không muốn động
Những năm cuối đời, Hàn Mặc Tử sống trong sự lạnh lẽo, cô đơn cùng sự đau đớn của bệnh “phong cùi”. Đôi bàn tay co quắt, khô cằn cũng không cản bước ông sáng tác thơ ca, cống hiến cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Có lẽ, chính những đau khổ của cuộc đời, niềm khát khao cuộc sống mà những sáng tác của ông trong giai đoạn này càng thêm sâu sắc, lạ lẫm, độc đáo nhưng cũng đau đớn và có phần điên loạn.
Có rất nhiều tập thơ Hàn Mặc Tử về tình yêu, dưới đây là danh sách tổng hợp tất tần tật các tác phẩm:
Gió xuân đi khỏi bao giờ, Tấc xuân với tấm lòng thơ não nùng. Hỏi mình, mình có nhớ nhung, Bao la non nước một vùng nước non. Quen nhau từ thuở đào non, Biết nhau từ thuở trăng tròn, ai ôi! Hương thơm bay mất đi rồi, Mỗi lần hoa nở gây mùi yêu đương. Chiêm bao thấy mặt chán chường, Tỉnh ra hoảng hốt, hỏi nường, nường đâu! Sao trong giai tiết mà sầu, Rưng rưng nước mắt ai hầu lau cho?
Mở miệng không ra, những nghẹn ngào, Tương tư sầu ấy cực làm sao! Nghe chim anh võ kêu buồn đáp, Thấy bóng đông quân tới biếng chào. Đứng sững ngoài hiên mà tưởng tượng… Ngồi thừ trước án để chiêm bao. Mặc cho hoa rụng bay tơi tả, Lẩm bẩm: “Em ơi, khổ thế nào”!
Tuổi trẻ nào e nỗi ế chồng Dèm pha mặc kệ ngó như không Sen phơi nắng hạ hương càng thắm Bùn lóng hồ thu nước vẫn trong Dòng Ngư gieo thơ chưa gặp khách Cầu Lam đợi ngọc quản chi công Miệng lằn lưới mối đừng khua nữa Ta há như ai vững tợ đồng!
Gió rủ nhau đi chốn cả rồi Nhỏ to, câu chuyện, ô kìa coi Trong lau như có điều chi lạ, Hai bóng lung lay, thấy cọ mài… Chen chúc, bóng trăng dòm thiệt kĩ: Hai cành lau siết vì yêu thương Cái Nàng năm ngoái không quay lại Ngồi nghỉ bên lau để vấn vương Âm thầm, gió quyến mùi hương mất Để khóm vi lau đứng trẻn trơ Từ trước say sưa tình quấn quýt, Lạnh lùng không nói tận bao giờ…
Thần trí cao dâng đến chín trời Cung cầm rất lạ nỗi chơi vơi E khi mùi đạo là hương đức Đớp mắt lên cho chí rụng rời Hào quang vây riết điềm chiêm bao Chúa hiện ra trong điệu nhạc nào Đầy rẫy no nê nguồn sáng láng Rất nên trăng ngọc với vàng sao Phút giây hoan lạc ngớp vô song Bờ bến thơ đây rộn gió lòng Ý đã nên sang, tình phải trọng Cho mau! Lời nguyền nóng lên không Chúa tôi, trên hết báu thanh xuân Rất đã, rất no, ớn bội phần Lời đẹp cao rao muôn trượng cả: Đây, xuân như ý, nguyện như rằm
Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự Tôi đều nhận thấy trên môi em Làn môi mong mỏng tươi như máu Đã khiến môi tôi mấp máy thèm
Từ lúc tóc em bỏ trái đào Tới chừng cặp má đỏ au au Tôi đều nhận thấy trong con mắt Một vẻ thơ ngây và ước ao
Lớn lên, em đã biết làm duyên Mỗi lúc gặp tôi che nón nghiêng Nghe nói ba em chưa chịu nhận Cau trầu của khách láng giềng bên
Ta: Nắng chiều mát dịu như kem, Về đâu vội vã cô em bán trầu? Vì đâu duyên thắm nơi nhau, Dừng chân đứng lại trên cầu đã nao…
Nàng: Nắng chiều trong lá vườn chen, Chợ chiều hết họp lỡ duyên em rồi, Vui gì anh hỏi lôi thôi, Tương tư nặng gánh ai người biết cho…
Ta: Nắng chiều hôn lấy má em, Giữa đàng gặp gỡ anh thèm duyên tơ… Trên đồi mây trắng vẩn vơ, Bay quanh lưu luyến, sững sờ có khi…
Nàng: Lòng em như nước suối trong, Tình em như miếng giầu nguồn anh ơi, Hàng này đáng giá mấy mươi, Mà anh mua lấy cho người ta chê?
Ta: Trong khi khao khát tình yêu, Dầu rằng tốt, xấu, giàu, nghèo, cũng cam, Cánh đồng lả lướt khói lam, Anh mơ cái lúc hương trầm đốt lên…
Nàng: Lòng em nghe đã bồi hồi, Yêu anh không biết mở lời sao đây? Ô kìa! Bóng liễu ngất ngây, Đứng im không nói đã say sưa tình…
Ta: Ở đây có sẵn trầu tươi, Em têm một miếng em mời anh đi, Rồi ra duyên thắm lâu dài Trăm năm ghi lấy những lời ngây thơ.
Lan ngắm giùm em, lịch sự không? Lần đầu em mặc áo thêu bông… Lan đâu hiểu lẽ em làm dáng, Lan ạ! Mai đây em lấy chồng…
Non nước tâm tình rộng bốn phương Đòi em làm Nhạc, tôi làm Hương Đêm nay đại yến Lâm Xuân Các Điêu Thuyền đàn khúc Tề Tuyên Vương
Xong rồi đôi ta qua Đào Nguyên Em làm rượu ngọt, anh làm men Tiên cô không đợi duyên mời mọc Say thôi gò má đỏ rần lên.
Liêu Tây bây giờ đang chiêm bao Bây giờ ly biệt đến phương nao Ước chi ta hoá làm Lê ảnh Để khóc thương nhau đến bạc đầu.
Ta căm với tiếng reo khô Ta buồn với liễu bên hồ ngẩn ngơ Ngông cuồng đi hái vần thơ Yêu đương, rót nước để chờ trăng lên Bóng Hằng trong chén nằm nghiêng Lả lơi, tắm mát, làm duyên gợi tình Sóng xao mặt nước rung rinh Lòng ta khát miếng chung tình từ lâu Uống đi cho đỡ khô hầu Uống đi cho bớt cái sầu mênh mang Có ai nuốt ảnh trăng vàng Có ai nuốt cả bóng nàng Tiên Nga Đã thèm cái giấc mơ hoa
Kìa anh xem! Dải mây hờ trên đỉnh núi, Buổi chiều hôm đã nhuộm một màu lam. Và trên không đàn cò trắng đương làm Một bài thơ dài không vần điệu.
Bài thơ ấy xoá dần trong rặng liễu, Mà chúng ta – thi sĩ – đương mơ say Đương lặng nhìn hiện tượng của trời mây, Lòng ta bỗng xôn xao và nức nở.
Rồi tự nhiên, âm thầm trong tiếng thở, Lời ca ngâm vang dậy giữa đồi thông, Khiến vi lau im lặng, suối trong ngừng, Không lay nữa, cũng không thèm chảy nữa,
Chỉ ngây ngất lóng nghe lời mai mỉa Những linh hồn vất vả vì yêu thương. Kìa anh xem! Cô gái đứng bên đường, Mặc yếm thắm, dáng ngây thơ và bẽn lẽn.
Hái rau sam, nhưng xuân tình không thể nén, Trên làn môi ươn ướt như thèm duyên Mà chúng ta – thi sĩ – lặng triền miên Đương tìm vần! Trẻ, đẹp, non trong nếp áo.
Nếu cảnh vật, nước mây không huyền ảo. Hồn thơ đâu tràn vọt như giòng khe… Hồn thơ đâu uyển chuyển như sáo hè, Văng vẳng thổi, lan man trong bóng tối
Và hồn thơ đâu, anh hỡi! Cao vòi vọi, Như mây bay về chốn ngụ nàng Tiên, Mà những đêm thanh trong lúc ngả nghiêng, Để xiêm áo trễ tràng cho mát mẻ…
Trời sớm tinh sương em dậy rồi, Vội vàng vén áo ra vườn coi… Sương mai ấp lấy làn da thịt, Em hái trầu tươi, em cũng tươi.